Hoa hòe có tác dụng giảm tính thấm của mao mạch, tăng cường sức đề kháng và hồi phục đàn hồi của mạch máu đã tổn thương. Lá của cây hòe kép lông chim sẻ, các lá chét mọc đối và mọc so le. Cụm hoa mọc thành chùm màu vàng nhạt, màu trắng và ở đầu cành. Quả đậu thắt lại không đều giữa các hạt và có hình tràng hạt. Trong hoa hòe chứa sophorose, rutin và còn có sophoradiol, sophorin A, B, C, quercetin, betulin. Ngoài các công dụng trên thì hoa hòe còn có công dụng nào khác hay không? Mời các bạn tham khảo bài viết dưới đây của thadnjen để hiểu hơn về công dụng loài hoa này nhé!
Công dụng của hoa hòe
Cây hòe [ Styphnolobium japonicum (L.) Schott]; họ Đậu (Fabaceae) là cây nhỡ, cao đến 7 m, cành hình trụ, nhẵn. Lá kép lông chim lẻ, mọc so le, các lá chét mọc đối. Cụm hoa mọc thành chùm ở đầu cành; màu trắng hoặc vàng nhạt. Quả đậu hình tràng hạt; thắt lại không đều giữa các hạt. Hòe được trồng ở nhiều nơi trong nước ta; nhất là các tỉnh đồng bằng sông hồng, như Thái Bình, Hưng Yên; Hải Dương, Nam Định… để lấy nguyên liệu xuất khẩu, chiết xuất rutin và làm thuốc trong YHCT. Chỉ thu hái hoa hòe khi đã có từ 5 – 10 % hoa đã nở; ta thu được nụ hòe, có kích thước bằng hạt gạo tẻ; do vậy mà có tên là hòe mễ (mễ là gạo).
Trong hoa hòe chứa rutin. Ngoài ra, còn có quercetin, betulin, sophoradiol, sophorin A, B, C và sophorose.
Hoa hòe có tác dụng tăng cường sức đề kháng; giảm tính thấm của mao mạch, hồi phục tính đàn hồi của mạch máu đã tổn thương.Tác dụng chống viêm. Làm giảm sự tiêu hao oxy của cơ tim. Tác dụng cầm máu (hoa hòe hòe sao cháy). Tác dụng hạ huyết áp; bảo vệ gan (rutin), Chống kết tập tiểu cầu (rutin, quercetin); hạ cholesterol máu; cường tim và giãn động mạch vành; giải co thắt cơ trơn phế quản và ruột (quercetin).
Theo YHCT, hoa hòe có tác dụng lương huyết; chỉ huyết, thanh can, tả hỏa, hạ huyết áp. Dùng trị các chứng chảy máu: Chảy máu cam, đại tiểu tiện ra máu; xuất huyết dưới da, trĩ xuất huyết, cao huyết áp.
Thành phần của hoa hòe
Trong hoa hòe có chứa rutin là một loại vitamin P có tác dụng tăng cường sức chịu đựng của mạch máu. Rutin trong hoa hòe giúp ổn định và hạ huyết áp, phòng ngừa tai biến mạch máu não.
Người ta thường dùng nụ hoa hòe để làm thuốc. Hàm lượng rutin chứa trong nụ hoa rất cao (6-30% rutin). Hoa đã nở sẽ chứa hàm lượng rutin thấp hơn nên chất lượng dược liệu cũng giảm.
Sau khi thu hoạch nụ hoa, người ta tiến hành phơi khô hoặc sấy khô. Nụ hoa hòe khô có mùi thơm rất nhẹ nhàng, dễ chịu.
Một số chứng bệnh của hoa hòe
Liều lượng, ngày 4 – 12g, dạng thuốc sắc hoặc thuốc hãm.
Cần lưu ý, không dùng hoa hòe cho phụ nữ có thai.
Một số chứng bệnh thường dùng hoa hoè:
– Trị máu cam, trĩ xuất huyết, nụ hòe, trắc bách diệp, ngải diệp, tất cả đều sao cháy, mỗi vị 10g. Sắc uống ngày một thang.
– Trị tăng huyết áp, đau mắt, nụ hòe (sao vàng), lá sen, mỗi vị 10, cúc hoa vàng 4g, sắc uống ngaỳ một thang.
– Trị đaị tiểu tiện ra máu, hoa hòe, trắc bách diệp, mỗi vị 20g, hoàng liên, kinh giới , mỗi vị 8g, sắc uống, ngày một thang chia hai lần.
– Trị đi ngoài ra máu, các trường hợp huyết nhiệt, mao mạch giòn, huyết áp tăng, hòe hoa, thảo quyết minh, đều sao vàng, lượng bằng nhau 8 – 10g, dưới dạng thuốc hãm, uống nhiều ngày .
– Trị trĩ nội, viêm ruột, quả hòe ( sao đen), kim ngân hoa, mỗi vị 100g, cam thảo 10g, nghệ vàng 10g. Tán bột mịn, ngày uống 3 lần, mỗi lần 8 – 10g.